Mục lục:
- bằng tiến sĩ của John Paul II
- Tại Lublin, Cha Wojtyła đã chịu đựng sự khắc nghiệt của chế độ Cộng sản. Chính phủ đã bắt giữ Hiệu trưởng
Video: Đức Giáo Hoàng sẽ nói gì trong bài diễn văn trước Quốc Hội Mỹ? 2025
Sau khi được tấn phong, Đức Hồng y Cardin Krakow đã nhận ra tính cách trí tuệ của linh mục trẻ tuổi Cha Wojtyła, người sau này trở thành Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Đức Tổng Giám mục đã bổ nhiệm Karol nghiên cứu thêm tại Rome và tập trung các học giả của mình vào triết học của Thánh Thomas Aquinas và các nhà thần bí Tây Ban Nha như Thánh Gioan Thánh Giá và Thánh Theresa Avila. Mùa hè năm 1948, Cha Wojtyła trở về Ba Lan.
Sự nghiệp học vấn của Karol ở Rôma còn nhiều hơn lớp học và thư viện. Ông đã có cơ hội để xem nhà thờ lịch sử, hầm mộ, và đền thờ, và đáp ứng các máy chủ của các sinh viên khác từ khắp nơi trên thế giới. Rome, với các trường đại học Công giáo, là một trung tâm của hoạt động quốc tế.
Ở đây Đức Giáo Hoàng tương lai đã nhận được một nền giáo dục có giá trị trong nghệ thuật ngoại giao của La Mã. Với hàng giáo sĩ, giám mục, đại sứ, giáo sư, sinh viên, và hồng y từ khắp nơi trên thế giới, Cha Wojtyła đã có thể thực hành nhiều thứ tiếng ông biết từ những ngày nhỏ tuổi. Những tương tác này làm cơ sở cho Đức Giáo Hoàng tương lai, một số người cho rằng đó là vị giáo hoàng ngoại giao nhiều nhất mà Toà Thánh đã từng có.
Trong thời kỳ này, Cha Wojtyła vẫn còn viết thơ, văn xuôi và kịch. Bộ phim nổi tiếng nhất của ông là Brother of God God . Vở kịch này, theo cách sân khấu, vạch ra niềm tin của ông trong học thuyết xã hội của Giáo hội. Sau đó những ý tưởng thần học này sẽ trở nên súc tích và rõ ràng hơn trong các thông điệp khác nhau mà ông đã viết và gửi cho Giáo hội phổ quát.
bằng tiến sĩ của John Paul II
Năm 1951, Cha Wojtyła lấy thêm một ngày nghỉ hè, trong đó ông tiếp tục học triết học và thần học. Vào thời gian này, ông bắt đầu phát triển triết lý của ông về con người. Stein sinh ra là một người Do Thái, chuyển đổi sang đạo Công giáo, và trở thành một nữ tu Carmelite trước khi được gửi đến một Nazi (Đức Quốc xã) trại t death nạn và von Hildebrand đã trốn thoát thành phố New York vào năm 1940), Cha Wojtyła bắt đầu một trường phái tư tưởng mới trở nên nổi tiếng như là Hiện tượng học Thiên chúa(một phương pháp điều tra dựa trên tiền đề rằng thực tế bao gồm các đồ vật và các sự kiện như chúng được nhận thức hoặc hiểu trong ý thức con người chứ không phải bất cứ điều gì độc lập với ý thức con người). Trở thành giáo sư và giáo sư Sau đó, Cha Wojtyła trở thành giáo sư về triết học đạo đức và đạo đức xã hội tại một chủng viện ở Krakow và là giáo sư triết học tại Đại học Công giáo Lublin. Ông là Chủ tịch của Đạo đức và giảng dạy cho 25 năm trước khi ông được bầu làm giáo hoàng năm 1978. Ông đã trở thành một người đi làm, vận chuyển giữa Lublin và Krakow trên tàu đêm để giảng dạy và tư vấn trong một thành phố và nghiên cứu ở bên kia.
Tại Lublin, Cha Wojtyła đã chịu đựng sự khắc nghiệt của chế độ Cộng sản. Chính phủ đã bắt giữ Hiệu trưởng
999 (tương đương với Chancellor hoặc President) và chín linh mục trong khoa. Cũng như trong Thế chiến II và sự chiếm đóng của Đức quốc xã, dẫn tới các phong trào dưới đất, Cha Wojtyła đã tham gia các giáo sư gặp bí mật và trở thành một hạt nhân của các nhà khoa học tìm cách phá hoại chủ nghĩa cộng sản một cách hòa bình và triết học.
Trong thời kỳ này, Cha Wojtyła tiếp tục công việc chuẩn bị kết hôn. Ông đã sáng tác những suy nghĩ của mình vào một cuốn sách có tiêu đề Tình yêu và Trách nhiệm .
Cuốn sách này không chỉ là một tập hợp các hướng dẫn về hôn nhân mà còn là một nghiên cứu về ơn gọi hôn nhân và tình yêu tình dục mà hôn nhân mang lại. Bằng cách giải thích tình yêu hôn nhân và trinh khiết, nó cũng đã chứng tỏ là một công cụ có giá trị để chống lại cuộc cách mạng tình dục mà cản trở phương Tây sau Thế chiến II. Trong cuốn sách của mình, Cha Wojtyła giải thích rằng tính dục của con người rất tốt vì ham muốn tình dục dẫn dắt đàn ông và đàn bà vào hôn nhân. Sự trinh khiết đã được giải thích như một đức tính để yêu thương người khác như là người, chứ không phải là những đồ vật. Những khái niệm cá nhân này đã giúp mở đường cho những giáo huấn chung của ông về người nam và người nữ như những con người, chứ không phải là những vật thể không có con người, cái nhìn được xã hội thế tục chấp nhận như một toàn thể trong thế kỷ 20.